
Theo ghi nhận của Bộ Nông nghiệp và Môi trường, ngành Nông nghiệp chiếm khoảng 19,8% trong tổng lượng khí phát thải tại Việt Nam mỗi năm. Riêng việc xử lý phế phẩm nông nghiệp và khí thải phát ra từ trồng trọt đã chiếm khoảng 80% tổng lượng khí thải toàn ngành.
Trước thực trạng này, cùng những thách thức về biến đổi khí hậu và thực hiện cam kết đạt phát thải ròng bằng 0 (Net Zero) vào năm 2050 đòi hỏi nước ta cần nhanh chóng chuyển đổi xanh ngành nông nghiệp.

Thực tế cho thấy, các mô hình vùng nông nghiệp sinh thái đã được triển khai tại nhiều địa phương, tuy nhiên việc phát triển vẫn còn theo hướng manh mún, nhỏ lẻ. Việt Nam hiện có 7 vùng sinh thái nông nghiệp với điều kiện tự nhiên và khí hậu khác nhau, có tiềm năng để phát triển đa dạng các loại cây trồng theo hướng hữu cơ.
Mặc dù vậy, việc thiếu các dữ liệu đồng bộ về các vùng sinh thái đã gây khó khăn trong việc xây dựng những mô hình sản xuất phù hợp.

Bên cạnh đó, hiện nay tư duy sản xuất theo nông nghiệp sinh thái vẫn còn chưa được phổ biến. Hầu hết hoạt động sản xuất chỉ tập trung vào sản lượng, doanh thu mà chưa chú trọng tới các yếu tố về an toàn thực phẩm, tính bền vững và đa dạng sinh học.
Một thách thức nữa trong việc phát triển nông nghiệp sinh thái tới từ năng lực tài chính hạn chế. Để có thể phát triển nông nghiệp sinh thái cần chi phí đầu tư lớn, trong khi đó các nông hộ, doanh nghiệp, hợp tác xã (HTX) đều có quy mô vừa và nhỏ, khó có khả năng chi trả cho những khoản đầu tư này.
Theo Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam Cao Xuân Thu Vân, thời gian qua, nhiều HTX đã có những bước chuyển mình khi thay đổi mô hình sản xuất theo hướng hiện đại, bền vững. Tuy nhiên, do quy mô của HTX còn nhỏ dẫn tới hạn chế về tài chính, thiếu tài sản thế chấp để vay vốn ngân hàng nên vẫn gặp khó khăn trong việc đẩy mạnh đầu tư.
Để tháo gỡ vướng mắc này, bà Vân cho rằng, cần có thêm các cơ chế, chính sách liên quan tới tín dụng và thúc đẩy quỹ đầu tư cho nông nghiệp sinh thái, cũng như hỗ trợ liên kết thị trường và đào tạo công nghệ cho các HTX.

Bên cạnh đó, sự thiếu sự kết nối giữa các doanh nghiệp, HTX cũng như với khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài, việc ít chú trọng đổi mới mô hình kinh doanh, đổi mới công nghệ hoặc sáng tạo sản phẩm mới chính là rào cản khiến kinh tế tư nhân và HTX khó nâng cao giá trị gia tăng, thúc đẩy năng lực cạnh tranh, nâng tầm giá trị và vươn tới đẳng cấp quốc tế.

Mới đây, Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) đã tổ chức Hội nghị cho ý kiến về Dự thảo Đề án sản xuất trồng trọt giảm phát thải giai đoạn 2025 - 2035 nhằm hoàn thiện chính sách, góp phần phát triển ngành nông nghiệp Việt Nam.

Theo đó, Đề án đặt mục tiêu tới năm 2035, trồng trọt sẽ giúp giảm 30% lượng khí thải mê-tan, đồng thời tạo dựng nhãn hiệu “phát thải thấp” cho nông sản Việt.
Ngành trồng trọt đặt mục tiêu xây dựng thương hiệu nông sản phát thải thấp thông qua việc mở rộng quy mô các vùng sản xuất nông nghiệp sinh thái. Việc gắn nhãn “phát thải thấp” cho nông sản Việt không chỉ là một bước tiến trong việc “xanh hóa” nền nông nghiệp mà còn giúp mở rộng thị trường, đưa các sản phẩm mang thương hiệu Việt Nam tới những thị trường khó tính như EU, Mỹ, Nhật Bản…

Để đạt được mục tiêu đã đề ra, Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật dự kiến triển khai ít nhất 15 mô hình sản xuất giảm phát thải tại các vùng sinh thái, có khả năng nhân rộng; đồng thời thí điểm 5 mô hình canh tác phát triển tín chỉ carbon.
Bên cạnh đó, ngành trồng trọt cũng có kế hoạch xây dựng 5 gói kỹ thuật giảm phát thải cho 5 cây trồng chủ lực, thiết lập cơ sở dữ liệu phát thải theo vùng sinh thái và cây trồng và tổ chức tập huấn, đào tạo cho tối thiểu 3.000 cán bộ, nông dân, doanh nghiệp về kỹ thuật và công cụ đo phát thải.
Dự kiến, ngân sách thực hiện Đề án tới từ ngân sách Nhà nước, nguồn đầu tư tới tư các tổ chức quốc tế, doanh nghiệp và thông qua hợp tác công tư PPP.
Nguyên Anh