

Trong bài viết “50 năm phát triển vượt bậc của ngành nông nghiệp Việt Nam" của Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch Quốc hội Lê Minh Hoan, ông nhấn mạnh sự chuyển mình mạnh mẽ của ngành nông nghiệp Việt Nam trong nửa thế kỷ qua.
Ông cho biết, vào thời điểm đất nước thống nhất năm 1975, tổng sản lượng lúa (thóc) của Việt Nam chỉ đạt 5,49 triệu tấn, với năng suất trung bình 21,1 tạ/ha. Khi đó, dân số cả nước khoảng 46,5 triệu người, nên sản lượng lương thực bình quân đầu người mới đạt 243,3 kg, trong đó riêng thóc chỉ đạt 118 kg/người.
Trước tình trạng thiếu hụt nghiêm trọng, năm 1975, Việt Nam buộc phải nhập khẩu tới 880.000 tấn lương thực quy đổi ra thóc. Trong giai đoạn 1976 - 1981, Việt Nam mỗi năm phải nhập khẩu trên 1 triệu tấn lương thực, tỷ lệ đói nghèo lên tới gần 70%.

Sau 50 năm nỗ lực không ngừng, ngành Nông nghiệp Việt Nam đã đạt được những bước tiến vượt bậc, từ một nền sản xuất thiếu hụt lớn trở thành quốc gia bảo đảm vững chắc an ninh lương thực nội địa, đồng thời góp phần vào an ninh lương thực toàn cầu với sản lượng gạo xuất khẩu thuộc nhóm cao nhất thế giới.
Thành tựu trong bảo đảm lương thực đã tạo nền tảng để nông nghiệp Việt Nam từng bước chuyển đổi từ mô hình độc canh cây lúa sang phát triển một nền nông nghiệp tương đối toàn diện và đa dạng hơn.
Đến năm 2024, sản lượng lương thực có hạt của Việt Nam đạt 48 triệu tấn, trong đó sản lượng lúa (thóc) đạt 43,5 triệu tấn và sản lượng ngô đạt trên 4,4 triệu tấn - tăng gần 9 lần so với năm 1975. Sản xuất phát triển đã giúp ngành nông nghiệp đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng của gần 100 triệu dân, đồng thời còn xuất khẩu lương thực, góp phần bảo đảm an ninh lương thực toàn cầu.
Đối với cây công nghiệp lâu năm, xuất phát điểm năm 1975 còn rất thấp, nhưng hiện nay mỗi năm Việt Nam đã sản xuất được: 1,3-1,7 triệu tấn cà phê; 170-200 nghìn tấn hạt tiêu; 360-400 nghìn tấn hạt điều; trên 2,1 triệu tấn trái cây các loại và 1,3-1,5 triệu tấn mủ cao su. Trong ngành chăn nuôi, tổng sản lượng thịt năm 2024 đạt 8,1 triệu tấn, cao gấp gần 20 lần so với năm 1975.

Theo Ngân hàng Thế giới, năm 2023, GDP ngành nông nghiệp Việt Nam đạt khoảng 22,3 tỷ USD, chiếm 0,83% GDP nông nghiệp toàn cầu và xếp thứ 5 thế giới. Một số nông sản Việt Nam có vị thế hàng đầu toàn cầu về sản lượng, như: hạt tiêu đứng thứ nhất, cà phê đứng thứ hai, cao su và điều đứng thứ ba, lúa gạo đứng thứ năm, và chè đứng thứ sáu. Về thị phần xuất khẩu toàn cầu, nhiều sản phẩm đạt tỷ trọng cao như: điều chiếm 60%, tiêu 32,2%, thủy sản 28,8%, đồ gỗ 24,3%, cao su 15%, cà phê 14,1%, lúa gạo 10,3%, chè 8,5% và rau quả 7,8%.
Ngày nay, nông nghiệp không chỉ đóng vai trò là trụ đỡ kinh tế, nền tảng ổn định xã hội và đời sống cho phần lớn dân cư nông thôn, mà còn hướng đến phát triển bền vững. Ngành đang nỗ lực giảm phát thải khí nhà kính qua các mô hình nông nghiệp xanh, sạch, thân thiện với môi trường và tài nguyên thiên nhiên. Các sản phẩm nông nghiệp, thủy sản sạch, truy xuất nguồn gốc chiếm tỷ trọng ngày càng cao.
Ngoài ra, nông nghiệp Việt Nam còn tham gia tích cực vào việc bảo tồn sinh thái, gắn kết chặt chẽ giữa con người, động vật và cây trồng, đảm bảo sức khỏe cho đất, cây trồng, vật nuôi và con người. Một môi trường đất khỏe mạnh sẽ nuôi dưỡng những cây trồng khỏe mạnh, qua đó nâng cao sức khỏe cộng đồng.



Theo đó, nông nghiệp xanh - nông nghiệp trách nhiệm là cải thiện môi trường sinh thái, nâng cao chất lượng nông sản…; gia tăng năng lực sản xuất cho người nông dân cũng như sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường quốc tế. Quan trọng hơn, đó là một nền nông nghiệp có trách nhiệm, an toàn, vì cộng đồng.
Trong chiến lược đó, nông dân được xác định là chủ thể, trung tâm của quá trình phát triển nông nghiệp, kinh tế nông thôn và xây dựng nông thôn mới. Nông nghiệp Việt Nam sẽ phát triển theo hướng hiệu quả, bền vững, tích hợp đa giá trị, chú trọng nâng cao giá trị gia tăng và năng lực cạnh tranh. Đồng thời, ngành sẽ đẩy mạnh phát triển công nghiệp chế biến, bảo quản sau thu hoạch, mở rộng thị trường tiêu thụ nông sản cả trong nước lẫn quốc tế. Việc đảm bảo an toàn thực phẩm, an ninh lương thực quốc gia, bảo vệ môi trường sinh thái, cũng như thúc đẩy nông nghiệp xanh, hữu cơ và tuần hoàn, sẽ là những mục tiêu xuyên suốt trong giai đoạn phát triển tới.

Tuy nhiên, thực tế, nông nghiệp xanh vẫn còn tồn tại một số điểm cần được tháo gỡ, đó là: Chưa có các quy hoạch về sản xuất hữu cơ hay chính sách riêng hỗ trợ cho sản xuất hữu cơ; Chưa có nhiều tổ chức kiểm tra chứng nhận sản xuất hữu cơ “made in Vietnam”, đa phần việc chứng nhận đều phải thuê các tổ chức nước ngoài với mức phí cao; Nông nghiệp vẫn hoạt động dựa trên nền tảng quy mô nhỏ lẻ, nên việc áp dụng các hình thức sản xuất khép kín, tập trung lớn của nông nghiệp xanh là khá khó khăn; Người tiêu dùng chưa thực sự tin tưởng và chưa có kinh nghiệm phân biệt giữa sản phẩm sản xuất hữu cơ và các sản phẩm thông thường khác; nguồn nhân lực tinh thông trong sản xuất nông nghiệp hữu cơ còn hạn chế so với nhu cầu; chưa có các chương trình trọng điểm và đầu tư nguồn lực tương xứng để tạo đột phá nông nghiệp xanh...
Về định hướng phát triển nền nông nghiệp xanh trong giai đoạn tới, ông Lê Minh Hoan nhấn mạnh: "Thế giới không đứng yên như chúng ta nghĩ, giờ người ta mua cách tạo ra sản phẩm, mua câu chuyện tạo ra sản phẩm của người nông dân, của ngành hàng. Điều này đòi hỏi, ngành Nông nghiệp phải thay đổi tư duy sản xuất theo hướng xanh, bền vững".
Ông Hoan chia sẻ thêm: “Chúng ta thường nhắc nhiều đến kinh tế xanh, nhưng cần làm rõ khái niệm này. 'Xanh' xuất hiện sau 'nâu' - thời kỳ mà vì mục tiêu tăng trưởng, môi trường đã bị tàn phá. Đã có lúc chúng ta nghĩ rằng muốn phát triển kinh tế thì phải đánh đổi môi trường. Tuy nhiên, hiện nay, với sự tiến bộ của khoa học công nghệ, chúng ta hoàn toàn có thể vừa thúc đẩy tăng trưởng, vừa bảo vệ môi trường. Điều đó đòi hỏi ngành nông nghiệp Việt Nam phải thích ứng với xu thế tất yếu của toàn cầu - xu hướng xanh hóa. Đây là chiều hướng không thể đảo ngược, và chúng ta cũng không nên kỳ vọng quay về cách làm cũ. Để xây dựng nền kinh tế xanh, cần chú trọng giáo dục về tư duy này ngay từ trong trường học, từ đó lan tỏa nhận thức sâu sắc hơn trong xã hội. Kinh tế xanh không chỉ nằm ở việc tăng diện tích canh tác, mà là nâng cao giá trị trên từng đơn vị diện tích, thậm chí dù quy mô thu hẹp, giá trị tạo ra vẫn lớn hơn. Trên cơ sở đó, các cơ chế, chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế xanh sẽ được triển khai đồng bộ”.
