

Tại Thanh Hóa, nhiều doanh nghiệp đã coi chứng nhận xanh là yếu tố sống còn. Ông Nguyễn Trọng Hùng, Phó Giám đốc Công ty TNHH gỗ công nghiệp Thanh Hoa, cho biết: “Nếu không có chứng nhận FSC về quản lý rừng bền vững, sản phẩm gỗ của chúng tôi gần như không thể xuất khẩu sang châu Âu. Dù chi phí ban đầu khá cao, nhưng nhờ chứng nhận này, chúng tôi có được đơn hàng ổn định và giá bán tốt hơn từ 10–15% so với hàng chưa được chứng nhận.”
Xu hướng tiêu dùng xanh không chỉ là câu chuyện của thị trường quốc tế mà còn ngày càng rõ nét ngay tại Việt Nam. Một khảo sát của NielsenIQ cho thấy, gần 80% người Việt sẵn sàng chi trả nhiều hơn cho các sản phẩm thân thiện với môi trường.

Để đạt được chứng nhận xanh, doanh nghiệp phải vượt qua hàng loạt thách thức. Trước tiên là chi phí. Với cây ăn quả, để được công nhận hữu cơ, nông dân phải mất ít nhất 2–3 năm chuyển đổi quy trình từ giống, phân bón đến thuốc bảo vệ thực vật. Chi phí kiểm định, tái chứng nhận định kỳ cũng không hề nhỏ.

Bên cạnh đó, một trở ngại lớn khác là tình trạng “xanh giả” (greenwashing). Đây là hiện tượng nhiều doanh nghiệp chỉ chú trọng tạo vỏ bọc xanh thay vì thực sự đầu tư vào sản xuất bền vững.
Theo PGS.TS. Loan, có nhiều chiêu thức phổ biến: “Doanh nghiệp có thể chỉ có một sản phẩm xanh nhưng lại quảng bá thành công ty xanh toàn diện; hoặc dùng bao bì màu xanh, dán nhãn eco, bio, organic… một cách lập lờ. Thậm chí, họ tổ chức các chương trình môi trường rầm rộ chỉ để làm thương hiệu, trong khi thực tế quy trình sản xuất vẫn gây ô nhiễm nặng nề”.
Một nghiên cứu của Tổ chức Người tiêu dùng châu Âu (BEUC) công bố tháng 2/2025 chỉ ra rằng 53% tuyên bố về sản phẩm xanh tại châu Âu là phóng đại hoặc gây hiểu lầm.
Báo cáo của RepRisk tháng 10/2024 cũng cho thấy, chỉ riêng trong năm 2024 đã có hơn 1.800 sự kiện liên quan đến việc doanh nghiệp công bố sai lệch thông tin môi trường.
“Greenwashing đánh vào cảm xúc người tiêu dùng hoặc nhà đầu tư thông qua những tuyên bố mơ hồ, khó kiểm chứng. Điều này không chỉ gây tổn hại cho khách hàng mà còn làm thiệt thòi những doanh nghiệp chân chính,” bà Loan nhấn mạnh.
Một rào cản lớn khác là vấn đề tài chính. Theo World Bank (2022), nhu cầu tài chính để Việt Nam xây dựng khả năng chống chịu và giảm phát thải khí nhà kính giai đoạn 2022–2040 lên tới 368 tỷ USD, tương đương 6,8% GDP mỗi năm. Trong đó, riêng quá trình khử carbon chiếm 2,1% GDP, còn thích ứng chiếm 4,7%. Ở cấp độ doanh nghiệp, trên 50% vẫn loay hoay với bài toán vốn để chuyển đổi xanh.

Trong bối cảnh “xanh thật” và “xanh giả” đan xen, minh bạch trở thành chìa khóa để tạo niềm tin. Tại Thanh Hóa, hiện nay nhiều doanh nghiệp đã ứng dụng công nghệ số vào sản xuất xanh.
Đơn cử là Công ty CP Mía đường Lam Sơn (Lasuco) đã triển khai hệ thống MRV (đo lường – báo cáo – thẩm định) với cảm biến, ảnh vệ tinh và trí tuệ nhân tạo để theo dõi quá trình hấp thụ carbon của từng hecta mía. Nhờ đó, Lasuco vừa bán được tín chỉ carbon, vừa có minh chứng rõ ràng về nỗ lực giảm phát thải.
Hay như lĩnh vực hàng tiêu dùng, startup Fuwa3e áp dụng mã QR truy xuất nguồn gốc cho từng chai dung dịch sinh học. Người dùng chỉ cần quét mã là có thể biết chi tiết quy trình sản xuất, nguyên liệu và tác động môi trường.
“Nếu làm xanh mà không minh bạch, không tạo sự tiện lợi cho người tiêu dùng thì rất khó để thuyết phục họ,” anh Lê Duy Hoàng, nhà sáng lập Fuwa3e chia sẻ.

Theo PGS.TS. Loan, “xanh hóa không chỉ đơn thuần là thêm một màu sắc vào sản phẩm. Đó là tái cấu trúc toàn bộ chuỗi giá trị – từ nguyên liệu, sản xuất, phân phối, sử dụng và tái chế – để giảm thiểu tác động đến môi trường. Những doanh nghiệp làm thật thường công khai báo cáo phát triển bền vững, áp dụng các chứng nhận quốc tế như ISO 14001, ISO 22000, nhãn sinh thái uy tín. Đây mới là căn cước xanh đáng tin cậy.”
Trên thực tế, đã có nhiều mô hình thành công, chứng tỏ sự kiên định với phát triển bền vững mang lại hiệu quả rõ rệt. Với doanh nghiệp lớn, Vinamilk là một ví dụ. Công ty đã áp dụng mô hình kinh tế tuần hoàn: thức ăn chăn nuôi – sản xuất sữa – chất thải – biogas, phân bón, nước tái sử dụng – quay lại đồng cỏ.
Nhờ vậy, Vinamilk vừa tiết kiệm chi phí, vừa giảm phát thải, đồng thời được vinh danh ở hạng mục Green Leadership tại giải thưởng Doanh nghiệp Trách nhiệm Châu Á.
Ở quy mô nhỏ hơn, Công ty TNHH Spicy Country với sản phẩm Tương ớt Spico xanh hay VinaGreen với gạo ST25 Lúa – Tôm theo mô hình phát thải thấp cũng đang chứng minh sự kiên định với con đường sản xuất bền vững.

Như TS. Nguyễn Trọng Quyền nhấn mạnh: “Chứng nhận xanh không phải đích đến, mà là thước đo cho sự chân thành của doanh nghiệp. Ai coi đó là gánh nặng sẽ dừng lại. Ai coi đó là cơ hội sẽ tìm thấy con đường phát triển dài lâu.” Khi minh bạch, kiên định và có cơ chế quản lý chặt chẽ, chứng nhận xanh sẽ thực sự trở thành căn cước đáng tin cậy, giúp doanh nghiệp phát triển bền vững và người tiêu dùng chọn lựa thông minh.
Bài và ảnh: Hà Khải
Trình bày: Nguyên Anh