

Hưởng ứng tinh thần đó, Thanh Hóa đã nhanh chóng cụ thể hóa bằng các định hướng và kế hoạch rõ ràng. Từ Nghị quyết 58-NQ/TW (05/8/2020) định vị tỉnh là cực tăng trưởng mới gắn với bảo vệ môi trường, đến Công văn 17417/UBND-NN (11/11/2021) triển khai Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh, và đặc biệt là Quyết định 3825/QĐ-UBND (18/10/2023) ban hành Kế hoạch hành động giai đoạn 2021–2030 với 8 nhóm nhiệm vụ từ nâng cao nhận thức, hoàn thiện thể chế đến chuyển đổi sản xuất ở các ngành mũi nhọn.
Với định hướng rõ ràng, Thanh Hóa đã sớm coi kinh tế xanh và kinh tế tuần hoàn là trụ cột trong tiến trình phát triển bền vững. Các mục tiêu, chiến lược do HĐND và UBND tỉnh đề ra được hiện thực hóa bằng nhiều chính sách, chương trình hỗ trợ doanh nghiệp, tạo động lực để nhiều đơn vị tiên phong chuyển đổi.
Công ty CP Mía đường Lam Sơn (Lasuco) là một ví dụ tiêu biểu. Thay vì chỉ tập trung vào sản xuất đường, doanh nghiệp đã tái cấu trúc toàn bộ chuỗi giá trị. Họ đầu tư dây chuyền tiết kiệm năng lượng, áp dụng mô hình mía hữu cơ, giảm tối đa việc sử dụng hóa chất, đồng thời tận dụng toàn bộ phụ phẩm từ cây mía để sản xuất điện sinh khối, phân bón hữu cơ và thức ăn chăn nuôi.

Không dừng ở đó, Lasuco còn tận dụng lợi thế về vùng nguyên liệu để thu lợi từ tín chỉ Carbon từ cây mía. Đây là một hướng đi tiên phong của nông nghiệp xanh Việt Nam.
Cuối năm 2024, doanh nghiệp hợp tác cùng hai đối tác Nhật Bản là Idemitsu Kosan và Sagri triển khai dự án giảm phát thải carbon tại vùng nguyên liệu mía Lam Sơn. Bắt đầu với 500 ha, dự án dự kiến mở rộng lên 8.000 ha vào năm 2026.
Dự án áp dụng phương pháp “Quản lý đất nông nghiệp cải thiện” (VM0042), hướng tới đăng ký và bán tín chỉ Carbon từ những hoạt động canh tác thân thiện với môi trường, hạn chế phân bón hóa học, không đốt phụ phẩm sau thu hoạch, và gia tăng khả năng lưu trữ carbon trong đất.
Điểm đặc biệt là Sagri đã đưa vào vận hành hệ thống MRV (Measurement – Reporting – Verification), kết hợp ảnh vệ tinh, cảm biến tại đồng ruộng và trí tuệ nhân tạo, để theo dõi chính xác lượng carbon hấp thụ hay phát thải ở từng thửa đất. Mỗi hecta mía được gắn mã định danh, và toàn bộ dữ liệu từ trồng, chăm sóc đến thu hoạch đều được số hóa.
Theo ông Lê Bá Chiều, Phó Tổng Giám đốc phụ trách các dự án đầu tư của Lasuco, mía phải trồng đủ hai năm để hệ thống rễ và sinh khối phát triển hoàn thiện, đồng thời các chỉ số về hàm lượng Carbon trong đất đạt trạng thái ổn định. Khi đó mới có thể đánh giá chính xác khả năng hấp thụ Carbon.

Ông Đỗ Đình Hiệu, Giám đốc VCCI Thanh Hóa – Ninh Bình, nhận định, tăng trưởng xanh không chỉ là yêu cầu tuân thủ quốc tế mà còn là “tấm hộ chiếu” nâng sức cạnh tranh, nhất là với xuất khẩu. Các chính sách của tỉnh, như Kế hoạch hành động tăng trưởng xanh 2021–2030, đã tạo môi trường thuận lợi cho doanh nghiệp đầu tư công nghệ sạch và sản phẩm thân thiện môi trường. Tuy nhiên, doanh nghiệp cần đổi mới tư duy quản trị, coi “xanh” là giá trị cốt lõi và tận dụng cơ chế hỗ trợ, hợp tác quốc tế.


Bên cạnh đó, việc xanh hóa quy trình cũng đồng nghĩa với thay đổi cách tiếp cận thị trường. Nhiều doanh nghiệp Thanh Hóa đã bắt đầu áp dụng mô hình truy xuất nguồn gốc điện tử, giúp khách hàng ở bất kỳ đâu có thể kiểm tra nguồn nguyên liệu, quy trình sản xuất và tác động môi trường của sản phẩm. Đây là yếu tố đang được người tiêu dùng, đặc biệt ở châu Âu và Bắc Mỹ, đánh giá rất cao.
Anh Lê Duy Hoàng, người sáng lập thương hiệu chế phẩm sinh học Fuwa3e, cho rằng ngoài việc đầu tư công nghệ, tư duy xanh còn phải gắn với sự tiện lợi và thói quen của người dùng.
“Sản phẩm có thân thiện môi trường mà dùng rườm rà, giá quá cao hay xa lạ với khách hàng thì cũng khó đi xa. Làm xanh nhưng vẫn phải dễ dùng, dễ mua và giúp người dùng thấy ngay lợi ích trong đời sống hằng ngày,” anh chia sẻ.
Không chỉ các doanh nghiệp lớn mới theo đuổi xu hướng này, tại Thanh Hóa vẫn có nhiều cơ sở sản xuất nhỏ đầy khát vọng xanh hóa. Một ví dụ là anh Phạm Minh Tôn, Giám đốc Công ty CP Xuất khẩu Chiếu cói Việt Anh.
Xuất thân từ vùng quê có nghề cói truyền thống, học hết lớp 9 anh đã rời quê đi làm thuê khắp nơi để kiếm sống và tích lũy vốn. Năm 2009, anh trở về Nga Sơn khởi nghiệp với mong muốn đưa cây cói quê hương vươn ra thị trường quốc tế.
Thay vì tiếp tục lối sản xuất thủ công, manh mún, anh mạnh dạn đầu tư dây chuyền dệt tiết kiệm năng lượng, sử dụng thuốc nhuộm từ thực vật, áp dụng quy trình “không rác thải” trong xưởng, tận dụng sợi vụn để làm đồ thủ công, phân loại và tái chế bao bì. Nhờ đó, chiếu cói Việt Anh không chỉ đạt chứng nhận OCOP 4 sao, mà còn xuất khẩu sang hơn 20 quốc gia, doanh thu trước năm 2023 đạt 5–6 triệu USD/năm, tạo việc làm cho hàng trăm lao động và hàng chục nghìn hộ sản xuất thời vụ.
Có thể thấy, việc đầu tư sản xuất xanh là một sân chơi bình đẳng, nơi mọi mô hình kinh doanh đều có cơ hội khẳng định vị thế nếu biết tận dụng. Yếu tố then chốt không nằm ở quy mô hay nguồn vốn ban đầu, mà ở sự dám thay đổi tư duy, kiên trì cải tiến sản phẩm và coi môi trường là nền tảng cho sự phát triển bền vững.

TS. Nguyễn Trọng Quyền, Trưởng phòng Khoa học – Viện Nông nghiệp Thanh Hóa, cho rằng: “Đầu tư cho sản xuất xanh thực tế không phải là gánh nặng, nhưng vẫn tồn tại những khó khăn nhất định do phải thay đổi tư duy sản xuất. Một số công đoạn có thể làm tăng chi phí so với trước đây, như phun thuốc diệt cỏ hay phòng trừ sâu bệnh theo hướng an toàn sinh học. Tuy nhiên, giá bán sản phẩm về cơ bản đã bù đắp được phần chênh lệch này. Lợi ích lớn nhất là nâng cao giá trị cho sức khỏe người tiêu dùng và bảo vệ môi trường, đồng thời tạo nền tảng phát triển bền vững cho doanh nghiệp".
Bài và ảnh: Hà Khải
Trình bày: Nguyên Anh