

Trước bối cảnh đó, việc trao đổi tri thức, chia sẻ kinh nghiệm và đối thoại chính sách trở thành nhu cầu cấp thiết không chỉ với nhà hoạch định chính sách mà còn với doanh nghiệp, tổ chức phát triển và các cơ sở đào tạo - nghiên cứu, như PGS. TS. Lê Trung Thành, Hiệu trưởng Trường Đại học Kinh tế (UEB) - Đại học Quốc gia Hà Nội (VNU), nhấn mạnh.

Theo Báo cáo Thực trạng và Xu hướng Định giá Carbon 2025 của Ngân hàng Thế giới (WB), các công cụ định giá carbon hiện kiểm soát khoảng 28% lượng phát thải khí nhà kính toàn cầu, tạo ra doanh thu hơn 100 tỷ USD, trở thành nguồn lực tài chính quan trọng cho chuyển đổi xanh.
Trên nền tảng đó, Việt Nam đang khẩn trương hoàn thiện khuôn khổ pháp lý nhằm hiện thực hóa cam kết giảm phát thải. Luật Bảo vệ Môi trường 2020 đã quy định rõ về tổ chức và phát triển thị trường carbon tại Điều 139. Tiếp đó, Nghị định số 119/2025/NĐ-CP, ban hành ngày 9/6/2025, sửa đổi bổ sung Nghị định số 06/2022/NĐ-CP, đặt ra lộ trình vận hành thí điểm sàn giao dịch carbon từ năm 2025 đến 2028, và chính thức từ năm 2029, đồng thời hướng tới kết nối với thị trường carbon quốc tế.


Việt Nam xác định việc phát triển thị trường carbon không chỉ là tăng khối lượng giao dịch, mà quan trọng hơn là đảm bảo chất lượng tín chỉ và giá trị quốc gia. Theo ông Nguyễn Tuấn Quang, Phó Cục trưởng Cục Biến đổi Khí hậu, Bộ Nông nghiệp và Môi trường, với việc vận hành chính thức Điều 6.4 của Thỏa thuận Paris và sự ra đời của Quỹ Rừng Nhiệt đới Vĩnh viễn, thế giới đang chuyển từ tư duy “bù đắp” sang “đóng góp thực chất”. Tín chỉ carbon, đặc biệt là tín chỉ rừng, phải đảm bảo tính toàn vẹn môi trường, bền vững và minh bạch. Việt Nam không chạy theo số lượng lớn tín chỉ giá rẻ mà tập trung vào tín chỉ chất lượng cao để bảo đảm lợi ích quốc gia và nâng cao vị thế trên thị trường quốc tế.

Các chuyên gia nhận định, ba yếu tố quyết định tương lai thị trường carbon Việt Nam là sự hợp tác hiệu quả, nền tảng công nghệ hiện đại và sự tham gia chủ động của khu vực tư nhân. Khi kết nối hài hòa, tham vọng giảm phát thải toàn cầu sẽ chuyển hóa thành lợi ích thiết thực cho cộng đồng, đặc biệt các cộng đồng nghèo và dân tộc thiểu số. Thị trường carbon không chỉ là công cụ ứng phó khí hậu mà còn là cơ hội kinh tế mới, đòi hỏi quan hệ đối tác công - tư vững mạnh và sự phù hợp với thông lệ quốc tế.

Hợp tác quốc tế đang là động lực then chốt để Việt Nam phát triển thị trường carbon bài bản. Đại sứ Canada tại Việt Nam, ông Jim Nickel, cho biết quan hệ hợp tác song phương được củng cố thông qua Dự án Carbon for Good, do Tổ chức CARE, Trung tâm Nghiên cứu Lâm nghiệp Quốc tế (CIFOR) và Đại học British Columbia (UBC) triển khai. Dự án này thúc đẩy phát triển thị trường carbon rừng bao trùm tại Lai Châu, Sơn La và Phú Thọ, kết nối hiệu quả hành động cấp tỉnh với chính sách quốc gia, đồng thời phát huy thế mạnh của Canada trong quản lý rừng bền vững, giám sát công nghệ hiện đại và nghiên cứu học thuật.
“Trong thời gian tới, chúng tôi nhìn thấy tiềm năng lớn trong hợp tác phát triển chính sách thị trường carbon, thiết kế cơ chế vận hành, chuyển giao công nghệ, nâng cao năng lực và kết nối doanh nghiệp hai nước. Cùng nhau, chúng ta có thể xây dựng hệ thống thị trường carbon mang lại giảm phát thải thực chất, thúc đẩy đổi mới và tăng trưởng bền vững, bao trùm”, Đại sứ Jim Nickel nhấn mạnh.

Việt Nam đang đứng trước cơ hội chưa từng có để phát triển thị trường carbon minh bạch, chất lượng và hội nhập quốc tế, hướng tới một nền kinh tế xanh, bền vững và đảm bảo lợi ích quốc gia. Từ khung pháp lý, sàn giao dịch, đến hợp tác quốc tế, mỗi bước đi đều được hoạch định bài bản, đặt mục tiêu không chỉ về kinh tế mà còn về môi trường, xã hội và uy tín quốc gia trên trường toàn cầu.
Trần Huyền