
Hiện nay, Việt Nam có hơn 35.000 người làm công tác khuyến nông ở các cấp, trong đó 6.281 viên chức đang công tác tại các trung tâm và trạm khuyến nông, cùng hơn 5.000 tổ khuyến nông cộng đồng với hàng vạn thành viên hoạt động tại cơ sở.
Đây là một mạng lưới “xương sống” gắn chặt với người nông dân, góp phần truyền tải chủ trương, kỹ thuật, mô hình sản xuất, giúp nông nghiệp Việt Nam chuyển từ sản lượng sang giá trị, từ manh mún sang hàng hóa.
Tuy nhiên, khi cả nước chuyển sang mô hình chính quyền địa phương hai cấp (tỉnh - xã), việc sắp xếp lại hệ thống đơn vị sự nghiệp công lập nói chung – trong đó có hệ thống khuyến nông – trở thành yêu cầu cấp thiết.

Bộ Nội vụ và Bộ Nông nghiệp – Môi trường đã tiến hành rà soát, đánh giá toàn diện để xác định hướng đi mới cho hệ thống này, bảo đảm vừa tinh gọn bộ máy, vừa không làm đứt gãy các hoạt động hỗ trợ nông dân.
Theo thống kê, 34 tỉnh, thành phố đã sắp xếp lại tổ chức theo hướng tinh gọn, trong đó 29 địa phương duy trì Trạm Khuyến nông khu vực trực thuộc trung tâm cấp tỉnh, 3 tỉnh (Hà Nội, Thanh Hóa, Quảng Trị) chuyển sang mô hình Trạm Dịch vụ nông nghiệp khu vực, còn Lào Cai và Quảng Ngãi giao cho UBND tỉnh quản lý.
Sau khi sắp xếp, cả nước có 324 trạm khuyến nông khu vực với hơn 4.500 viên chức, cùng gần 10.000 cán bộ khuyến nông cấp xã và 25.000 thành viên trong các tổ khuyến nông cộng đồng.
Theo Bộ Nội vụ, việc sắp xếp hệ thống khuyến nông theo mô hình hai cấp giúp tinh gọn đầu mối, giảm chồng chéo chức năng và nâng cao tính điều phối của cấp tỉnh.
Mô hình mới cũng tạo điều kiện để các trung tâm khuyến nông cấp tỉnh đóng vai trò đầu mối về kỹ thuật, nghiên cứu, hướng dẫn và kiểm tra, thay vì dàn trải nhân lực cho từng trạm nhỏ lẻ.

Cùng với đó, việc thành lập các tổ khuyến nông cộng đồng ở cấp cơ sở là một điểm sáng, giúp phát huy tính tự quản, tự nguyện, khơi dậy tinh thần “nông dân dạy nông dân”.
Các tổ này không chỉ hỗ trợ sản xuất mà còn góp phần quan trọng trong việc truyền thông chính sách nông nghiệp, lan tỏa mô hình sản xuất xanh, an toàn, bền vững.
Việc đưa dịch vụ khuyến nông vào đơn vị sự nghiệp đa ngành cấp xã, theo định hướng mới của Tổng Bí thư Tô Lâm, là một bước tiến về quản trị: “một đơn vị – nhiều chức năng”, vừa đảm bảo tiết kiệm biên chế, vừa tăng khả năng phục vụ người dân ở cơ sở.

Chủ trương tinh gọn bộ máy khuyến nông là cần thiết trong bối cảnh cải cách hành chính và sắp xếp lại các đơn vị sự nghiệp công lập. Tuy nhiên, trên thực tế, quá trình triển khai đang bộc lộ nhiều vướng mắc, đặc biệt ở khâu tổ chức, pháp lý và nhân lực.

Trước hết, thiếu một khung pháp lý thống nhất quy định rõ chức năng, nhiệm vụ và mối quan hệ giữa các cấp khuyến nông sau khi sắp xếp. Ở nhiều địa phương, việc chuyển đổi mô hình diễn ra theo hướng “tự tìm đường đi” – có nơi vẫn duy trì trạm khuyến nông khu vực, nơi lại gộp vào đơn vị sự nghiệp đa ngành hoặc Trung tâm dịch vụ nông nghiệp. Hệ quả là thiếu tính đồng bộ trong chỉ đạo, kiểm tra và phân bổ nguồn lực, khiến hiệu quả hoạt động giữa các địa phương có sự chênh lệch đáng kể.
Nhiều địa phương phản ánh, sau khi tinh giản, công tác tập huấn, chuyển giao kỹ thuật cho nông dân bị gián đoạn; các mô hình khuyến nông trọng điểm thiếu người theo dõi, hướng dẫn thường xuyên.
Đặc biệt, tuyến cơ sở – cấp xã – đang là “mắt xích yếu” nhất trong toàn hệ thống. Nhiều xã sau khi sắp xếp không còn đủ khuyến nông viên hoặc chỉ còn kiêm nhiệm, dẫn tới tình trạng “vừa làm vừa chờ” và hoạt động mang tính hình thức.
Theo quy định chuyển tiếp, người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã (bao gồm khuyến nông viên) chỉ được làm việc đến hết ngày 31/5/2026, khiến không ít địa phương lo ngại sẽ xảy ra “khoảng trống nhân sự” trong giai đoạn chuyển giao.
Trong khi đó, tổ khuyến nông cộng đồng – một sáng kiến từng giúp “nông dân dạy nông dân” và lan tỏa mô hình sản xuất hiệu quả – lại đang gặp rào cản về cơ chế tài chính và pháp lý. Luật Tổ chức chính quyền địa phương 2025 chưa có hướng dẫn cụ thể về vị trí pháp lý, cơ chế hỗ trợ hay định mức chi cho tổ này, khiến nhiều nơi phải hoạt động cầm chừng, thậm chí tạm dừng chờ khung quy định mới.
Theo kết luận của Tổng Bí thư Tô Lâm, tinh thần xuyên suốt trong việc tổ chức lại hệ thống khuyến nông là “không để bộ máy phình to, nhưng không để cơ sở bị bỏ trống”.
Cụ thể, không tổ chức các trạm khuyến nông khu vực, liên xã; cấp tỉnh chỉ duy trì Trung tâm khuyến nông với chức năng hướng dẫn, điều phối, kiểm tra; còn cấp xã sẽ thành lập đơn vị sự nghiệp công lập đa ngành, đảm nhận các dịch vụ công thiết yếu – trong đó có khuyến nông, khuyến ngư, bảo vệ môi trường, phát triển sản xuất nông nghiệp.
Đáng chú ý, Tổng Bí thư yêu cầu mỗi xã phải có ít nhất 5–6 cán bộ khuyến nông, nhưng không tăng tổng biên chế – tức là tái phân bổ nhân lực từ cấp trung gian về cấp cơ sở, đưa “nguồn lực về gần dân”.
Đây là định hướng có ý nghĩa chiến lược: nếu được thực hiện tốt, sẽ xóa được tầng nấc trung gian, giảm chi phí hành chính, đồng thời tăng hiệu quả phục vụ và tiếp cận người dân – điều mà hệ thống khuyến nông luôn hướng đến.

Để quá trình sắp xếp đạt hiệu quả, cần triển khai đồng bộ một số giải pháp trọng tâm:
(1) Hoàn thiện khung pháp lý
Bộ Nông nghiệp và Môi trường cần ban hành văn bản hướng dẫn thống nhất trước ngày 15/10/2025 về cơ cấu tổ chức, biên chế và nhiệm vụ của hệ thống khuyến nông trong mô hình hai cấp.
Quy định rõ trách nhiệm, quyền hạn của Trung tâm khuyến nông tỉnh, đơn vị sự nghiệp công lập cấp xã, và tổ khuyến nông cộng đồng.
(2) Bảo đảm nhân lực và chế độ
Cần bố trí tối thiểu 2 viên chức khuyến nông tại mỗi đơn vị sự nghiệp công lập cấp xã, đồng thời xây dựng cơ chế thu hút, đãi ngộ phù hợp để giữ chân người có chuyên môn nông nghiệp, tránh tình trạng “chảy máu chất xám” về doanh nghiệp tư nhân.
(3) Nâng cao năng lực khuyến nông cơ sở
Đẩy mạnh đào tạo, tập huấn, trang bị kiến thức chuyển đổi số, nông nghiệp thông minh, nông nghiệp sinh thái… cho cán bộ khuyến nông.
Gắn hoạt động khuyến nông với chương trình xây dựng nông thôn mới, giảm nghèo bền vững và phát triển kinh tế xanh.
(4) Củng cố vai trò tổ khuyến nông cộng đồng
Tăng hỗ trợ ngân sách, định mức chi hoạt động và cơ chế giám sát để các tổ hoạt động thực chất.
Phát huy mô hình nông dân nòng cốt, hợp tác xã làm “hạt nhân” khuyến nông, gắn tư vấn kỹ thuật với tiêu thụ sản phẩm.
(5) Tăng cường chuyển đổi số trong quản lý khuyến nông
Xây dựng cơ sở dữ liệu số về mạng lưới khuyến nông, tạo kênh kết nối trực tuyến giữa cán bộ, nông dân và doanh nghiệp.
Đưa nền tảng số thành công cụ điều hành, đào tạo và phổ biến kỹ thuật hiệu quả, nhất là ở vùng sâu, vùng xa.

Khuyến nông không chỉ là một bộ phận của ngành nông nghiệp – mà là “bộ rễ” nuôi dưỡng sự phát triển bền vững của nền nông nghiệp Việt Nam.
Việc sắp xếp, tinh giản hệ thống khuyến nông theo mô hình chính quyền hai cấp là bước đi tất yếu, song cần được thực hiện thận trọng, có lộ trình, tránh tình trạng “tinh gọn cơ học” làm mất liên kết với cơ sở.
Khi mỗi xã đều có đội ngũ khuyến nông đủ mạnh, được trao quyền và có cơ chế hoạt động rõ ràng, người nông dân sẽ không bị bỏ lại phía sau trong quá trình chuyển đổi nông nghiệp hiện đại, xanh và bền vững – đúng như tinh thần Tổng Bí thư Tô Lâm khẳng định: “Phải gắn khuyến nông với cơ sở, với đồng ruộng, với đời sống của nông dân – đó mới là khuyến nông thực chất”./.
Nguyễn Thị Thắm