Phát triển thị trường carbon đóng vai trò quan trọng trong thực hiện mục tiêu Net Zero tại Việt Nam. Với diện tích rừng lên hơn 14 triệu ha, nước ta được đánh giá là có nhiều tiềm năng để thúc đẩy tín chỉ carbon rừng.
Với cam kết về giảm phát thải ròng bằng 0 (Net Zero) vào năm 2050, thị trường carbon rừng sẽ là giải pháp hữu hiệu, trở thành động lực để Việt Nam đạt được những mục tiêu đã đề ra. Việc phát triển thị trường này còn góp phần nâng cao nhận thức cộng đồng về vai trò của rừng trong bảo vệ môi trường, đồng thời thúc đẩy các hoạt động trồng rừng, bảo vệ rừng hiện có và phục hồi các vùng đất đã bị tàn phá.
Nếu được đầu tư đúng mức, thị trường này không chỉ giúp nâng cao hệ sinh thái rừng mà còn mở ra cơ hội hợp tác, thu hút đầu tư nước ngoài và thúc đẩy phát triển kinh tế xanh.

Tại "Diễn đàn Net Zero Việt Nam 2025: Thị trường carbon trong kỷ nguyên mới" được tổ chức bởi Viện Tư vấn phát triển (CODE) và Tạp chí TheLEADER vào ngày 18/7, nhiều ý kiến tới từ các chuyên gia, nhà nghiên cứu, nhà hoạch định chính sách đã được đưa ra nhằm tìm ra hướng phát triển cho thị trường carbon rừng.
Theo TS Lê Xuân Nghĩa, Viện trưởng Viện Tư vấn Phát triển, hiện nay đơn vị này quản lý khu sinh thái với khoảng 300 ha rừng tự nhiên. Thời gian qua, Viện đã đẩy mạnh đầu tư để thực hiện đo đạc, xác minh số liệu và định lượng tín chỉ carbon đúng theo yêu cầu của thị trường. Tuy nhiên, thị trường trong nước hiện chưa có còn thị trường nước ngoài thì không được bán do chưa có khung pháp lý rõ ràng.
Ông Nghĩa chia sẻ, một trong những nguyên nhân khiến cho thị trường carbon tại Việt Nam chưa thể phát triển là do có những lo ngại về việc bán tín chỉ carbon ra nước ngoài thì các doanh nghiệp trong nước sẽ không còn tín chỉ để bù trừ nghĩa vụ phát thải. Ngoài ra, nếu bán tín chỉ ra nước ngoài có thể sẽ ảnh hưởng đến nghĩa vụ giảm phát thải quốc gia, do tín chỉ đã được chuyển nhượng quốc tế.

Đại diện Viện Tư vấn Phát triển đề xuất cần đẩy nhanh thời gian cơ chế, chính sách để thị trường carbon Việt Nam sớm được đưa vào hoạt động. Đồng thời cần hoàn thiện khung pháp lý rõ ràng để thuận tiện cho việc giao dịch tín chỉ carbon tại trường quốc tế.

PGS, TS. Nguyễn Đình Thọ, Phó viện trưởng Viện Chiến lược, chính sách Nông nghiệp và Môi trường (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) cho rằng, quá trình hình thành thị trường carbon tại Việt Nam đang gặp hai trở ngại lớn.
Đầu tiên là việc thiếu hụt nguồn nhân lực chất lượng để thúc đẩy hoạt động của thị trường. Hiện nay, Việt Nam vẫn chưa có hệ thống vận hành thị trường, chưa có tổ chức hay thành viên chính thức tham gia giao dịch, và đặc biệt là chưa có hàng hóa carbon rõ ràng để đưa ra thị trường.
Lý giải tình trạng các chủ hộ rừng nhỏ lẻ không thể bán tín chỉ carbon ra thị trường nước ngoài, ông Thọ chia sẻ điều này xuất phát từ những hạn chế về năng lực tiếp nhận tài chính, công nghệ và khả năng quản lý thị trường.

Ông Thọ cho biết, muốn bán được tín chỉ ra quốc tế thì Chính phủ phải đánh giá được tác động của dự án, nhưng hiện nay nước ta vẫn chưa có đủ nguồn năng lực để thực hiện điều này. Do đó, toàn bộ các dự án bán tín chỉ carbon đều đang bị tạm dừng.
Bên cạnh đó, thông tin về thị trường carbon hiện nay còn rất hạn chế, khiến cho người dân, doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc tham gia vào thị trường. Ông Thọ cho rằng cần phát triển các nền tảng như phần mềm, cổng thông tin, website… để người dân và doanh nghiệp có thể tiếp cận những chuyên gia hiểu sâu về thị trường, từ đó nhận được những thông tin chính xác và đáng tin cậy nhất.
Theo lãnh đạo Viện Chiến lược, chính sách Nông nghiệp và Môi trường, hiện nay các doanh nghiệp vừa và nhỏ gần như không thể tiếp cận được các công cụ đo lường, báo cáo và xác minh tín chỉ carbon do chi phí lớn. Ông đề xuất phát triển cơ chế chia sẻ công cụ: từ phần mềm đo lường – báo cáo – xác minh, đến hệ thống đào tạo, truyền thông, phổ biến thông tin để người dân hiểu đúng về thị trường tín chỉ carbon.

Chia sẻ tại sự kiện, ông Phạm Hồng Lượng, Phó Cục trưởng Cục Lâm nghiệp và Kiểm lâm (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) cho biết, dự thảo Nghị định về dịch vụ hấp thụ và lưu giữ carbon của rừng đang được lấy ý kiến sẽ góp phần hoàn thiện khung pháp lý để phát triển thị trường carbon rừng Việt Nam. Nghị định lần này không chỉ giúp tăng cường nguồn lực xã hội cho công tác bảo vệ và phát triển rừng mà còn góp phần thực hiện cam kết quốc gia về Net Zero.
Theo ông Lượng, dự thảo lần này cũng có nhiều điểm mới, đi sâu vào nhiều nội dung nhằm tăng tính khả thi. Bên cạnh các quy định về phương thức đo đạc, báo cáo, thẩm định, xây dựng và triển khai dự án carbon rừng theo các quy định hiện hành, dự thảo Nghị định còn nêu rõ cách thức tiếp nhận, quản lý, sử dụng nguồn tài chính nhận được, cũng như cơ chế theo dõi, giám sát và đánh giá hiệu quả thực hiện.

Theo đó, dự thảo Nghị định gồm 18 điều, quy định rõ các chủ thể cung ứng dịch vụ bao gồm: chủ rừng, hộ gia đình, cá nhân tham gia quản lý, bảo vệ rừng. Bên sử dụng dịch vụ là các nhà đầu tư, cơ sở công nghiệp có nhu cầu bù trừ phát thải. Ngoài ra, Nghị định cũng làm rõ mối quan hệ giữa các bên, vai trò và trách nhiệm cụ thể của từng bên liên quan.
Tuy nhiên, liên quan tới chính sách hỗ trợ cho bảo vệ và phát triển rừng do cá nhân, hộ gia đình hay cộng đồng làm chủ, có ý kiến cho rằng nội dung trong dự thảo vẫn chưa làm rõ. Đại diện Cục Lâm nghiệp và kiểm lâm cho biết, Nghị định có tính đến đầy đủ các chi phí cần thiết trong quá trình triển khai dự án carbon rừng. Mặc dù vậy, do tính mới và phức tạp của vấn đề này, dự thảo vẫn cần thêm ý kiến đóng góp nhằm hoàn thiện các cơ chế hỗ trợ cho nhóm đối tượng là chủ rừng nhỏ lẻ để đảm bảo quyền lợi của họ khi tham gia thị trường carbon.

Nguyên Anh