

Sự thành công của chương trình “Mỗi xã một sản phẩm” (OCOP) không chỉ đến từ khát vọng làm giàu trên chính quê hương, mà còn nhờ năng lực tổ chức, liên kết và chuẩn hóa sản phẩm của khu vực kinh tế tập thể. Trong đó, hợp tác xã (HTX) là mắt xích trung tâm – nơi quy tụ trí tuệ bản địa, kinh nghiệm sản xuất và tinh thần cộng đồng. Với gần 50% chủ thể OCOP được công nhận là HTX, có thể nói, khu vực này vừa là nền móng của chương trình, vừa là “người giữ hồn” cho các sản phẩm nông nghiệp đặc trưng.
Đằng sau mỗi sản phẩm OCOP là một câu chuyện dài về sự kế thừa bí quyết truyền thống: từ cách ướp chè, ủ mắm, đến kỹ thuật dệt, gốm, thêu... Tuy nhiên, trong môi trường kinh doanh toàn cầu hóa, nơi cạnh tranh khốc liệt và đạo nhái diễn ra phổ biến, nếu không được bảo vệ bằng sở hữu trí tuệ (SHTT), thì những giá trị này có thể bị mất trắng chỉ sau một thương vụ.

Thực tế cho thấy, dù số lượng đơn đăng ký nhãn hiệu, sáng chế, kiểu dáng của doanh nghiệp Việt Nam đang tăng đều qua các năm, thì khu vực HTX vẫn gần như “vắng bóng” trên bản đồ SHTT quốc gia. Đáng lo ngại hơn, nhiều sản phẩm đã đạt chuẩn OCOP 3 sao, 4 sao – những “ngôi sao sáng” của kinh tế nông thôn vẫn chưa được bảo hộ pháp lý đầy đủ. Điều này khiến hàng loạt bí quyết sản xuất và thương hiệu làng nghề không có “lá chắn” pháp lý trước nguy cơ sao chép, làm giả, hoặc chiếm dụng thương hiệu.

Đăng ký SHTT, đặc biệt ở cấp quốc tế điều mà nhiều sản phẩm OCOP tiềm năng đang hướng tới không chỉ đòi hỏi kiến thức mà còn tiêu tốn một khoản kinh phí lớn. Chi phí tư vấn pháp lý, dịch thuật, tra cứu khả năng trùng lặp, nộp hồ sơ, duy trì hiệu lực, thậm chí là phí phản đối khi bị kiện tụng, có thể lên tới hàng trăm triệu đồng. Đối với các HTX nhỏ, vốn hoạt động chủ yếu dựa vào nguồn vốn góp ít ỏi của xã viên hoặc vốn vay ưu đãi, khoản chi này gần như là “ngoài tầm với”.
Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Trần Thanh Nam cho biết, OCOP đã tạo ra sức lan tỏa lớn, góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, giữ gìn bản sắc văn hóa và phát huy tri thức bản địa. Tuy nhiên, nhiều sản phẩm vẫn gặp khó do thiếu vùng nguyên liệu ổn định, khó tiếp cận tín dụng, hạn chế công nghệ và chưa đạt chuẩn quốc tế.
Đặc thù của HTX là phải tự cân đối tài chính giữa sản xuất, phân phối và tái đầu tư, nên mọi chi tiêu đều phải tính toán kỹ. Khi chi phí đăng ký SHTT không mang lại lợi ích “ngay lập tức”, nó thường bị xếp sau những ưu tiên khác như mua nguyên liệu, sửa chữa nhà xưởng hay quảng bá sản phẩm. Kết quả là, SHTT bị xem như khoản đầu tư xa xỉ, dù trên thực tế, chính nó mới là “tấm vé bảo hiểm” cho sự tồn tại lâu dài của thương hiệu.

Một thực tế đáng lo là khoảng trống nhận thức chiến lược trong nhiều HTX, đặc biệt ở vùng nông thôn sâu, nơi người đứng đầu xuất thân từ nông dân, chưa được trang bị tư duy kinh doanh hiện đại. Với họ, “sở hữu trí tuệ” vẫn là khái niệm mơ hồ, chỉ hiểu đơn giản như việc “đăng ký cho có”, chứ chưa được coi là công cụ nâng giá trị sản phẩm. Chính sự thiếu hiểu biết này khiến nhiều HTX chưa thấy được mối liên hệ giữa việc đăng ký nhãn hiệu với khả năng mở rộng thị trường hay giữa chỉ dẫn địa lý với uy tín quốc tế của sản phẩm.
Khi lợi ích chưa rõ ràng, họ ngại đầu tư, tạo nên vòng luẩn quẩn: không đăng ký – không được bảo hộ – sản phẩm bị sao chép – mất giá trị – lại càng không đủ vốn để đăng ký. Một số HTX từng vấp phải khó khăn trong thủ tục hoặc thiếu hỗ trợ từ cơ quan chức năng, nên dần hình thành tâm lý “ngại va chạm”, “làm thủ công cho lành”. Tư duy “an phận ở thị trường làng xã” khiến nhiều sản phẩm dừng lại ở quy mô địa phương, đánh mất cơ hội vươn xa.

Ông Nguyễn Ngọc Thân, Giám đốc HTX Dược liệu Pù Luông (Thanh Hóa), cho biết sản phẩm mật ong Pù Luông được công nhận OCOP 3 sao năm 2021, được người tiêu dùng đánh giá cao về chất lượng. Tuy nhiên, do địa bàn cách trở, đội ngũ quản lý hạn chế về tiếp cận thị trường, phần lớn sản lượng vẫn tiêu thụ tự do, chưa có hệ thống nhận diện thương hiệu và bảo hộ pháp lý tương xứng.
Với các sản phẩm truyền thống, bí quyết sản xuất được xem như “gia tài tổ tiên” – thứ không thể mang ra công khai. Vì thế, việc đăng ký sáng chế hay giải pháp hữu ích vốn yêu cầu mô tả chi tiết kỹ thuật khiến nhiều chủ HTX lo ngại: “Công bố ra rồi người khác học lỏm thì sao?”
Tâm lý này xuất phát từ sự nhầm lẫn giữa “công khai kỹ thuật” và “mất bí mật”. Thực tế, quy trình đăng ký sáng chế chỉ công bố phần cấu trúc kỹ thuật tổng quát, còn phần bí mật thương mại (như tỉ lệ pha trộn, công thức ủ, thời gian lên men...) vẫn có thể được bảo vệ dưới dạng “bí mật kinh doanh”.

Tuy nhiên, khi thiếu hiểu biết pháp lý, nhiều HTX đã chọn “đóng cửa giữ bí quyết” thay vì đưa bí quyết vào khuôn khổ pháp luật để được bảo vệ lâu dài. Đây là rào cản tâm lý lớn khiến hàng loạt công thức quý giá bị “ẩn danh” suốt nhiều năm, trong khi thị trường ngày càng khốc liệt và cạnh tranh không lành mạnh hơn.
Ngay cả những HTX có nhận thức đúng đắn về SHTT cũng thường vấp phải rào cản về thủ tục hành chính và năng lực chuyên môn. Dù quy trình đăng ký đã được cải thiện, nhưng việc chuẩn bị hồ sơ, tra cứu thông tin, phân loại sản phẩm, theo dõi phản hồi… vẫn đòi hỏi kiến thức chuyên ngành và sự kiên trì.

Trong khi đó, đa phần cán bộ HTX kiêm nhiệm nhiều công việc vừa lo sản xuất, vừa lo tiêu thụ, kế toán, quản lý xã viên. Việc dành thời gian theo đuổi một thủ tục kéo dài vài tháng đến cả năm trở nên bất khả thi. Việc thuê luật sư hay đơn vị tư vấn SHTT lại tốn kém, đôi khi chi phí còn cao hơn cả lợi nhuận của một mùa sản xuất. Hậu quả là, nhiều HTX dù muốn nhưng vẫn phải “gác lại”, chấp nhận rủi ro.
Dù Nhà nước đã ban hành nhiều chương trình hỗ trợ phát triển tài sản trí tuệ, nhưng thực tế, rất ít HTX tiếp cận được. Nguyên nhân là các chương trình còn dàn trải, thủ tục xin hỗ trợ phức tạp, và chưa có đơn vị trung gian hướng dẫn chuyên biệt cho khu vực OCOP. Ngoài ra, thiếu kết nối giữa HTX với các viện nghiên cứu, trường đại học, tổ chức tư vấn khiến việc chuyển giao tri thức và bảo hộ pháp lý gần như bị ngắt quãng.
Có thể nói, OCOP là bệ phóng cho sản phẩm nông thôn, nhưng SHTT chính là tấm áo giáp giúp bảo vệ giá trị ấy. Nếu không vượt qua được những rào cản về tài chính, nhận thức và thể chế, nhiều sản phẩm OCOP sẽ chỉ dừng lại ở quy mô địa phương, dễ bị sao chép, mất thương hiệu và đánh mất lợi thế cạnh tranh. Bảo hộ SHTT không chỉ là một bước thủ tục hành chính, mà là chiến lược phát triển dài hạn, là cách để nông sản Việt vươn tầm, để những giá trị văn hóa, những “bí quyết vàng” không bị hòa tan trong làn sóng toàn cầu hóa.
Khánh Ly -Nguyễn Thị Thắm